Bỏ phiếu bằng thư với Bỏ phiếu bằng chân

Tác giả: Dwight R.Lee

(Lưu ý nhỏ, ở đây thuật ngữ “Vote by feet- Bỏ phiếu bằng chân” là thể hiện sự phản đối một chính sách, cách làm việc ở một nơi nào đó bằng cách rời đi)


Nguồn ảnh: Britannica

Hàng triệu người da đen đã không được bầu cử vì luật Jim Crow ở miền Nam Hoa Kỳ. Đó là tin xấu. Nhưng may mắn thay họ có thể đi ra khỏi nơi khắc nghiệt ấy và cả triệu người đã làm thế. Và khi làm vậy, người da đen đã nhận được lợi ích về kinh tế lẫn chính trị, đồng thời mang lại lợi ích cho hàng triệu người da trắng ở miền Bắc mà họ đã giao dịch. Những gì đã xảy ra ở Hoa Kỳ trong thế kỷ trước là bằng chứng ấn tượng cho thấy bỏ phiếu qua chân có sức mạnh hơn nhiều so với bỏ phiếu qua thư. Đây là bài học kinh nghiệm cho những tranh cãi ngày nay về vấn đề nhập cư vào Mỹ.

Trước hết phải tóm tắt lịch sử cái đã. Tu chính án thứ mười lăm của Hiến pháp Hoa Kỳ, được phê chuẩn vào năm 1870, tuyên bố rằng quyền bỏ phiếu của công dân Hoa Kỳ “sẽ không bị Hoa Kỳ hay bất kỳ Tiểu bang nào từ chối hoặc giảm bớt vì lý do chủng tộc, màu da hoặc tình trạng nô lệ trước đây”. Cần lưu ý rằng điều này chỉ áp dụng cho nam giới. Nhưng đến những năm 1890, các chính quyền tiểu bang và địa phương nói chung chứ không phải riêng, ở miền Nam bắt đầu tái ban hành các đạo luật hạn chế các quyền công dân và tự do của người da đen trước Nội chiến. Những luật này vẫn có hiệu lực cho đến giữa những năm 1960, và những ảnh hưởng xấu của chúng, mặc dù đã giảm bớt, nhưng vẫn chưa biến mất.

Luật Jim Crow bao gồm các bài kiểm tra khả năng đọc viết đã gây tổn hại bất công lên người da đen. thứ nhất, vì người da đen có điều kiện giáo dục kém hơn. Thứ hai, các bài kiểm tra có những câu hỏi khó hơn so với những câu hỏi dành cho người da trắng. Ngay cả khi người da đen vượt qua các bài kiểm tra, họ vẫn phải đối mặt với sự phân biệt đối xử, thuế thân, những trở ngại trong việc vượt qua quy trình đăng ký, các cuộc bầu cử sơ bộ chỉ dành cho người da trắng để lựa chọn các ứng cử viên Đảng Dân chủ (phe thích hợp duy nhất ở miền Nam vào thời điểm đó) và các mối đe dọa bạo lực. Kết quả là, cuộc bỏ phiếu giữa những người da đen giảm mạnh. Ví dụ, vào năm 1896, có hơn 130.000 cử tri da đen đã đăng ký ở Louisiana. Năm 1904, con số đó giảm xuống còn 1.3421, giảm hơn 98%!

Như đã đề cập ở đầu bài, đây là tin xấu. Nhưng người da đen miền Nam có một cách bỏ phiếu khác, và hàng triệu người trong số họ đã tận dụng tối đa: bỏ phiếu bằng chân. Hơn nữa, không chỉ nam giới mà cả nữ giới cũng có thể và đã thực hiện. Dẫu không thuận tiện như bỏ phiếu tại một phòng bỏ phiếu địa phương, bỏ phiếu bằng chân có một số lợi thế hơn bỏ phiếu qua thư, đặc biệt là đối với người da đen ở miền Nam vì luật Jim Crow. Ưu điểm rõ ràng nhất là, trái ngược với bỏ phiếu qua thư, việc bỏ phiếu bằng chân sẽ đảm bảo mọi người nhận được những gì họ đã bỏ phiếu. Những lợi ích trực tiếp nhất mà người da đen miền Nam nhận được từ việc bỏ phiếu bằng chân đó là kinh tế, và do đó, họ có động lực để thu nạp kiến thức và đưa ra quyết định khôn ngoan hơn so với người da trắng miền Nam đã bỏ phiếu qua thư. Việc đi bỏ phiếu bằng chân của người da đen từ 1915 đến 1970 ấn tượng tới nỗi nó được đặt cho một cái tên: Cuộc đại di cư. Trước hết, tôi sẽ xét những lợi ích của cuộc Đại di cư tới những người da đen và sau đó là lợi ích của xã hội Hoa Kỳ lúc bấy giờ.


Người Mỹ gốc Phi đợi một chuyến tàu đi về phía bắc ở Jacksonville, Florida, vào năm 1921. (Ảnh được Upfront Scholastic cấp phép, nguồn: washingtoninformer)

Những người da đen miền Nam di cư ồ ạt đến Đông Bắc và Trung Tây, còn phía Tây thì ít hơn, đã bỏ phiếu để có được các cơ hội về kinh tế, các quyền dân sự và chính trị mà Hiến pháp đã hứa với họ, bảo vệ họ và tài sản khỏi các mối đe dọa liên quan tới sắc tộc. Việc lá phiếu quyết định nơi sau nầy sẽ sinh sống đã tạo cho họ một động lực rất lớn để tìm tòi thông tin về những nơi ở mới. Nhưng không phải lúc nào việc di cư sang nơi khác cũng tốt hơn cho người da đen. Vì sự thù ghét chủng tộc và không khoan dung không chỉ tồn tại ở mỗi miền Nam, và sự cải thiện đời sống ở phía Bắc của một số người lại không xứng đáng với sự gián đoạn nhân lực và chi phí họ đã bỏ ra lúc di cư. Dù còn nhiều người da đen miền Nam bị mù chữ vì điều kiện giáo dục kém, họ vẫn có đủ hiểu biết để đưa ra những quyết định đúng đắn. Bằng chứng phổ biến nhất cho khẳng định vừa rồi là cuộc Đại di cư gần như liên tục và ổn định trong khoảng 55 năm. Nếu quyết định di cư của họ là sai lầm thì có lẽ nó đã không được những người da đen khác ở miền Nam học theo, và, không theo họ về phía Bắc.

Vài nhà sử học chia cuộc Đại di cư thành 2 phần: Cuộc di cư thứ nhứt (1915-1930), Cuộc di cư thứ hai (1940-1970) và sự tạm lắng trong thời kỳ Đại suy thoái. Cuộc di cư đầu tiên chứng kiến khoảng 1,6 triệu người chủ yếu di chuyển từ vùng nông thôn miền Nam đến các thành phố công nghiệp phía Bắc. Trong cuộc di cư thứ hai, hơn 5 triệu người đã di chuyển về phía bắc và một tỷ lệ lớn hơn đi về phía Tây – chủ yếu đến California – so với cuộc di cư đầu tiên. Để biết thêm chi tiết về cách cuộc Đại di cư phân bổ lại người da đen theo tỷ lệ phần trăm dân số, hãy xem biểu đồ dưới đây.

Biểu đồ phần trăm dân số của người Mỹ gốc Phi

Trong khi cuộc di cư dai dẳng của người da đen ra khỏi miền Nam là bằng chứng thuyết phục rằng những người da đen di cư đã cải thiện cơ hội kinh tế của họ, ta vẫn còn có bằng chứng trực tiếp. Trích nhà kinh tế học Leah P. Boustan của UCLA:

Từ năm 1915 đến năm 1970,… đối với người da đen di cư, miền bắc hứa hẹn cả về cơ hội việc làm với mức lương cao hơn và bình đẳng về chính trị và xã hội. Trong thời kỳ này, và đặc biệt là giữa những năm 1940 và 1970 khi phần lớn cuộc di cư của người da đen diễn ra, thu nhập của nam giới da đen tăng nhanh hơn thu nhập của nam giới da trắng trên toàn quốc. Năm 1940, đàn ông da đen kiếm được trung bình 40 xu so với 1 đô la của đàn ông da trắng; đến năm 1970, tỷ lệ này đã lên thành 70 xu/1 đô la2. (2015, tr. 24).

Người da đen vẫn phải đối mặt với nhiều vấn đề vì chủng tộc của họ, nhưng họ đã cải thiện điều kiện kinh tế của mình bằng cách di cư. Ngoài việc đạt được lợi ích kinh tế, họ còn đạt được lợi ích phi kinh tế quan trọng qua việc lựa chọn nơi ở của mình: khả năng khẳng định phẩm giá, sự tự tôn và giá trị của mình như một con người.

Trong một bài phát biểu vào tháng 4 năm 1865, Frederick Douglass cho biết tại sao người da đen lại muốn bỏ phiếu đến vậy:

Trước tiên, chúng tôi muốn nó vì đó là quyền của chúng tôi. Không một tầng lớp lại có thể chấp nhận việc quyền của họ bị tước đoạt mà không xúc phạm chính nhân phẩm của mình…. Chúng ta sống trong một xã hội quá lâu đến nỗi chúng ta tin vào khả năng của mình phần lớn đến từ cách nhìn của người khác. Nếu một sắc dân được bị coi là không thể làm nên trò trống gì, họ khó có thể vươn lên từ định kiến đó. Bằng cách tước quyền bầu cử của chúng tôi, bạn khẳng định chúng tôi không đủ khả năng để đem đến một bản án để trí thức để tôn trọng con người trong xã hội và các giải pháp công cộng; bạn tuyên bố trước thế giới rằng chúng tôi không thích hợp để thực hiện quyền bầu cử, và điều này làm cho chúng tôi phải đánh giá thấp bản thân, coi bản thân là thấp kém và cảm thấy rằng chúng tôi không có khả năng như những người da trắng khác3.

Đây là một tuyên bố hùng hồn về những gì mà người da đen miền Nam đã bị khước từ bởi những trở ngại đã ngăn cản họ thực hiện quyền bầu cử của mình tại các cuộc bỏ phiếu. Bằng cách bỏ phiếu bằng chân, người da đen đáp trả sự khinh thường mà họ bị đối xử và bằng cách đó, lấy lại phần lớn những gì Douglass nói rằng họ đã mất khi bị từ chối quyền bỏ phiếu. Khi bỏ phiếu bằng chân, họ đã xóa bỏ cách nhìn nhận trước đây của dân da trắng và tạo ra một hình ảnh mới: thông qua sáng kiến của riêng mình, họ đã thể hiện khả năng tìm kiếm thông tin, hình thành các phán đoán thông minh và kiểm soát cuộc sống của mình. Và, tất nhiên, bằng cách chuyển ra khỏi miền Nam, những người da đen này cuối cùng đã được bỏ phiếu tại thùng phiếu.

Ngoài ra, khi một người da đen không chấp nhận sự đối xử tệ bạc bằng cách bỏ phiếu bằng đôi chân của mình để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, thì đó là một hành động có sức lan tỏa đã truyền cảm hứng cho những người cùng cảnh ngộ khác làm theo. Ta có thể coi Cuộc đại di cư là điển hình cho việc một nhóm sắc dân bỏ phiếu ủng hộ tự do và tôn trọng. Và nó không chỉ cải thiện cuộc sống của những người đã bỏ phiếu bằng chân. Bằng cách giảm nguồn cung lao động ở miền Nam, cuộc Đại di cư cũng làm tăng cơ hội và tiền lương của những người da đen còn ở lại. Theo Boustan: “Nhìn chung, lợi nhuận của người lao động da đen do di cư từ miền Nam lớn hơn khoảng 2,5 lần [Ghi chú của tác giả: Con số của Boustan cho thấy lợi nhuận thu được lớn gấp 2,5 lần, không lớn hơn 2,5 lần] do cạnh tranh ở miền Bắc. Thu nhập của người da đen trên toàn quốc có thể đã được tăng thêm do mức lương cao hơn đối với người lao động da đen còn lại ở miền Nam, do việc di cư ra đi làm giảm sự cạnh tranh trên thị trường lao động miền Nam ”4 (2015, trang 26). Hơn nữa, bằng cách đi ra khỏi miền Nam, người da đen đã tăng thu nhập quốc dân bằng cách chuyển lao động từ việc làm kém năng suất sang việc làm có năng suất cao hơn.

Thật vậy, các cử tri da trắng ở miền Nam đã bỏ phiếu nhất quán trong suốt thời kỳ Jim Crow để khiến họ và miền Nam đi xuống về kinh tế. Họ đã bỏ phiếu cho các ứng cử viên và dự luật cản trở việc người da đen được học để nâng cao tay nghề và hạn chế việc họ bộc lộ hết khả năng của mình. Người da trắng coi trọng quyền tự do của họ, nhưng dường như họ không cân nhắc đến giá trị mà họ có thể nhận ra từ quyền tự do của người da đen. Hayek đã viết: “Những lợi ích mà tôi có được từ tự do phần lớn đến từ việc người khác sử dụng tự do, và đa phần những cách sử dụng ấy bản thân tôi không thể nào tận dụng hết được. Nên là, tự do mà tôi có thể sử dụng không nhất thiết là quan trọng nhất đối với tôi. ”5(1960; tr. 32). Mặc dù Hayek không nghĩ đến người da đen miền Nam khi viết bài này, nhưng quan điểm của ông vẫn đúng khi áp dụng. Người da trắng miền Nam, và miền Nam nói chung, sẽ giàu có hơn trong thời Jim Crow nếu người da đen có thể theo đuổi nguyện vọng của họ như những người đàn ông và phụ nữ tự do trong trao đổi thị trường với nhau và với người da trắng.

Tất nhiên các cử tri miền Nam không thể đọc cuốn The Constitution of Liberty của Hayek cho đến tận cuối thời Jim Crow. Nhưng có cũng chẳng khác gì. Khi bỏ phiếu, họ chỉ muốn thỏa mãn cái cảm xúc của họ thay vì cải thiện kinh tế7. Hầu hết cử tri da trắng có sự gắn bó cảm xúc mãnh liệt với những gì họ tin là quan điểm phổ biến của người da trắng – rằng người da đen không có khả năng bỏ phiếu một cách khôn ngoan và rằng đạo đức yêu cầu “giữ người da đen ở đúng vị trí” vì lợi ích của họ, dù nó có yêu cầu biện pháp bạo lực. Không rõ rằng đây có phải là quan điểm cá nhân phổ biến ở miền Nam hay không, ngoại trừ thực tế là hầu hết người da trắng đều nghĩ như vậy. Pinker nói:

Mọi người không thể chỉ vượt qua sự ghê tởm của họ đối với bạo lực mà thực ra còn thưởng thức nó;… Và mọi người có thể mong muốn [bao gồm cả bỏ phiếu cho] một niềm tin không phải của họ mà họ nghĩ rằng những người khác đều thích nó; những niềm tin như vậy có thể quét qua một xã hội khép kín và khiến nó bị mê hoặc bởi một ảo tưởng tập thể (2011, trang 570).

Điều đáng lo ngại là rất nhiều người da trắng miền Nam tự thuyết phục mình rằng giữ người da đen ở “vị trí của họ” là điều đạo đức cần làm và sử dụng chính quyền để thực thi “đạo đức” đó, thường là một cách thô bạo.

Trong trường hợp của Jim Crow ở miền Nam, những người da trắng có suy nghĩ phân biệt chủng tộc không những không nhận được lợi ích cụ thể nào từ niềm tin và phiếu bầu đầy tai hại của họ, mà còn gây hại cho chính họ cũng như người da đen. Khi hàng triệu người da đen miền Nam đi bộ bỏ phiếu để thoát khỏi tác hại đó, họ đã làm cho đất nước trở nên giàu có hơn. Ngoài ra, vì họ không còn cạnh tranh trực tiếp với công nhân da trắng ở miền Nam, nhiều người trong số những công nhân da trắng này, nhiều người có lẽ là phân biệt chủng tộc, được hưởng lợi từ sự giảm cạnh tranh.

Những điều vừa nêu trên có liên quan tới cuộc tranh luận về nhập cư hiện nay. Nhiều người dân Hoa Kỳ lo sợ rằng nếu chính phủ cho phép nhiều người nhập cư hơn vào đất nước Hoa Kỳ, những người nhập cư ấy sẽ bỏ phiếu ủng hộ cho sự can thiệp của chính phủ để nó giống như bộ máy chính quyền tại đất nước mà họ đã rời đi. Nhưng tôi tin rằng đại đa số người nhập cư đến đây không phải để họ có thể bỏ phiếu, mà để họ có thể kiếm tiền ở nơi vẫn còn là một vùng đất đầy cơ hội. Theo nghĩa đó, họ giống như những người da đen miền nam trong cuộc Đại di cư. Có thể bỏ phiếu là tốt, nhưng có được cơ hội kinh tế còn quan trọng hơn. Và từ đây ta có một giải pháp khả thi có thể làm hài lòng những người phản đối việc nhập cư nhiều hơn vì lo sợ về cách những người nhập cư đó sẽ bỏ phiếu: vẫn cho họ nhập cư, nhưng tăng khoảng thời gian trước khi họ có thể trở thành công dân lên 10 hoặc 20 năm. Và chứng kiến hàng triệu người di cư làm việc hiệu quả đến đây và giúp chúng ta trở nên tốt hơn.

Chú thích:

1. Xem qua “White Only: Jim Crow in America”. Bảo tàng Smithsonian.

2. Boustan, Leah P. “Cuộc di cư vĩ đại của người da đen: Cơ hội và sự cạnh tranh ở các thị trường lao động phía Bắc”. Vol. 32, No. 1, Spring/Summer 2015: 24-27.

3. Douglass, Frederick. “Người da đen muốn gì”. Trích bài phát biểu được đưa ra tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội chống nô lệ Massachusetts ở Boston, tháng 4 năm 1865.

4. Boustan, Leah P. “Cuộc Đại di cư của người da đen.” 

5. Hayek, Friedrich A. (1960). Cuốn Hiến pháp của Tự do. Chicago: Nhà xuất bản Đại học Chicago

6. Xem Lee, Dwight R. (2013). “Người nghèo có bỏ phiếu tư lợi không?” Thư viện Kinh tế và Tự do, ngày 5 tháng 8 năm 2013.

7. Pinker, Steven (2011). The Better Angels of Our Nature: Why Violence Has Declined. New York: Viking.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *